Với vai trò của một người thầy chỉ dẫn tâm linh đến Trái đất để giúp đỡ loài người vượt qua Qui luật ngiệp quả vật lý, tôi nhận được sự chỉ định của Thượng đế đến phục vụ tại hành tinh Vi Tế như là một người dẫn đường. Hành tinh này được gọi là Hiranyaloka hoặc hành tinh ánh sáng vi tế. Ở đó, tôi giúp đỡ cho những thực thể phát triển để thoát khỏi Nghiệp vi tế và thoát khỏi sự luân hồi vi tế. Những người cư trú ở Hiranyaloka đã phát triển cao về tâm linh; tất cả đều bắt buộc; trong cuộc sống vừa qua của họ ở trái đất, tất cả họ đều đã đạt được sức mạnh sức mạnh thiền định và rời khỏi cơ thể vật lý một cách tỉnh thức khi chết. Không ai có thể đi vào Hiranyaloka nếu người đó không vượt qua được những bài học tại Trái đất của “sabikalpa samadhi” để đi vào trạng thái cao hơn của “nirbikalpa samadhi”.
Những người cư trú trên Hiranyaloka đã vượt qua tầng không gian vi tế cấp thấp, nơi mà gần như tất cả các sinh vật trên Trái đất phải đi đến khi chết; họ đã giải quyết được rất nhiều các hạt giống nghiệp quả trong quá khứ ở thế giới vi tế. Chỉ có những thực thể tiến bộ mới có thể thực hiện được công việc này một cách hiệu quả trong thế giới vi tế. Sau đó, để tiếp tục phát triển linh hồn và giải quyết các nghiệp quả (dưới dạng vỏ trứng) trong cơ thể vi tế, những thực thể cao cấp đó dựa theo quy luật vũ trụ để tái sinh vào cơ thể vi tế mới tại Hiranyaloka, mặt trời vi tế hay thiên đường, nơi mà tôi được cử đến để giúp đỡ họ. Tại Hiranyaloka, cũng có rất nhiều thực thể cao cấp đến từ thế giới nhân quả.
Xem thêm Phương pháp Tự học Thiền: https://kimtuthap.org/tuhocthien-html/
Tạo hoá đã bao bọc linh hồn con người lần lượt trong 3 cơ thể: cơ thể nhân quả (ý định), cơ thể vi tế (chứa đựng cảm xúc và suy nghĩ) và cơ thể vật lý. Tại trái đất, con người được trang bị thêm những giác quan vật lý. Một thực thể vi tế hoạt động bằng cơ thể cảm xúc và ý thức . Một thực thể nhân quả tồn tại ở thế giới hạnh phúc của nhưng ý định. Công việc của tôi là giúp đỡ những thực thể vi tế này tiến lên thế giới nhân quả.
Có rất nhiều hành tinh vi tế và vô số những thực thể vi tế.
Những cư dân ở đây có thể di chuyển từ hành tinh này sang hành tinh khác với tốc độ nhanh hơn năng lượng điện từ.
Vũ trụ vi tế, được tạo ra bởi những rung động của ánh sáng và màu sắc, lớn hơn gấp hàng trăm lần vũ trụ vật chất. Thế giới vật chất so với thế giới vi tế như là một quả bóng rổ đứng cạnh bên một khinh khí cầu! Cũng giống như rất nhiều những mặt trời và ngôi sao vật lý trong không gian, tồn tại vô số những mặt trời và ngôi sao vi tế. Những hành tinh đó cũng có mặt trời và mặt trăng vi tế nhưng đẹp hơn so với vũ trụ vật lý rất nhiều. Những ngôi sao, mặt trời, mặt trăng vi tế toả ra những tia sáng rực rỡ chói lọi. Ngày và và đêm tại thế giới vi tế dài hơn tại trái đất.
Thế giới vi tế luôn luôn tươi đẹp, sạch sẽ, tinh khiết và ngăn nắp. Không có những hành tinh cằn cỗi hoặc không có sự sống. Không có cỏ dại, vi khuẩn, sâu bọ và rắn rết. Không giống như sự luân chuyển khí hậu theo mùa tại trái đất, những hành tinh vi tế chỉ có nhiệt độ của mùa xuân vĩnh cửu, thỉnh thoảng có những bông tuyết rực rỡ và những cơn mưa sắc màu. Các hành tinh vi tế có rất những hồ nước lấp lánh, những bải biển trong xanh và những dòng sông cầu vồng.
Tại vũ trụ vi tế cấp thấp, không phải Thiên đường vi tế Hiranyaloka, có rất nhiều những thực thể vi tế vừa mới đến từ trái đất và vô số những thiên thần, người cá, cá, động vật, yêu tinh, người lùn, á thần và các linh hồn, tất cả cư ngụ trên những hành tinh vi tế khác nhau tuỳ thuộc vào căn nghiệp của mỗi thực thể. Những linh hồn tốt và xấu ở tại những khu vực rung động khác nhau. Linh hồn tốt được dạo chơi tự do nhưng linh hồn xấu thì bị giới hạn. Cũng giống như những sinh vật trên trái đất, giun ở trong đất, cá ở dưới nước và chim ở trên cao, những thực thể vi tế khác nhau cũng cư ngụ ở những tầng rung động khác nhau.
Những thực thể bị trục xuất từ những thế giới khác vì chiến tranh, mâu thuẫn cư ngụ ở tầng tối tăm của vũ trụ vi tế cấp thấp để giải quyết những căn nghiệp xấu xa.
Bên trên những hành tình vi tế đen tối như nhà tù này là vô số những vương quốc tươi đẹp và tràn ngập ánh sáng! Vũ trụ vi tế dễ dàng hơn cho việc thực hiện những mong muốn và tìm kiếm sự hoàn hảo so với trái đất. Mỗi vật chất vi tế đều thể hiện sự mong muốn của tạo hoá và mong muốn của chính các thực thể vi tế đó. Họ sở hữu sức mạnh để có thể tạo ra hoặc bỏ đi tất cả mọi thứ. Tạo hoá đã ban cho những đứa con vi tế của mình sự tự do và quyền lực để có thể sở hữu hoặc thay đổi theo bất kỳ mong muốn nào tại vũ trụ vi tế. Tại trái đất, một chất rắn phải được chuyển thành chất lỏng hoặc ở một dạng khác bằng các phương pháp hóa học, nhưng chất rắn vi tế được chuyển đổi thành chất lỏng, chất khí hoặc năng lượng ngay lập tức chỉ bằng mong muốn của những người sống ở đây.
Trái đất đen tối bởi những cuộc chiến tranh và giết chóc ở khắp mọi nơi trên biển, đất liền và không khí, nhưng tại vương quốc vi tế mọi thứ đều công bằng và hạnh phúc như nhau. Các thực thể vi tế tự quyết định hình dạng tồn tại theo mong muốn. Hoa, cá hoặc động vật có thể biến thành một con người trong thời gian ngắn. Tất cả các thực thể vi tế đều có thể tồn tại dưới mọi hình thức và dễ dàng trong việc giao tiếp với nhau. Chẳng có giới hạn hay luật định nào cả. Ví dụ, tất cả các thực vật vi tế đều có thể tạo ra những quả xoài vi tế hoặc các loại trái cây, hoa quả khác nếu muốn. Chỉ có sự giới hạn về nghiệp quả chứ không có sự phân biệt về hình dạng mong muốn ở thế giới vi tế. Mọi thứ đều rung động với ánh sáng sáng tạo của tạo hóa.
Không có ai được sinh ra bởi người phụ nữ cả! Con cái được tạo ra từ những thực thể vi tế thông qua mong muốn vũ trụ của họ thành những hình dạng vi tế cô đặc. Những thực thể mới đến này gia nhập gia đình vi tế thông qua những lời mời hoặc những mục đích tâm linh nào đó.
Cơ thể vi tế không thể bị làm nóng, lạnh hoặc thay đổi theo điều kiện tự nhiên. Cơ thể vi tế bao gồm một bộ não vi tế như một bông hoa sen với hàng ngàn cánh hoa ánh sáng và 6 trung tâm năng lượng tỉnh thức trong sushmna như một bộ xương vi tế. Trái tim thu hút năng lượng vũ trụ và ánh sáng từ bộ não vi tế và bơm đến các dây thần kinh và tế bào vi tế. Các thực thể vi tế có thể tác động đến cơ thể bằng sự rung động năng lượng.
Cơ thể vi tế là một bản sao chính xác của cơ thể vật lý ở cuộc sống cuối cùng. Các thực thể vi tế giữ nguyên hình dạng có được khi còn trẻ trong cuộc lưu trú tạm thời trên trái đất trước đó. Thỉnh thoảng, các thực thể vi tế cũng chọn hình dạng già dặn – giống như tôi.
Không giống như không gian 3 chiều của thế giới vật lý được chứng nghiệm bởi 5 giác quan, thế giới vi tế được cảm nhận bởi giác quan thứ 6 bao gồm tất cả các giác quan khác. Các thực thể vi tế hoàn toàn dùng cảm nhận trực giác để nhìn, nghe, ngửi, nếm và chạm. Họ có 3 con mắt nhưng 2 con mắt trong số đó gần như đóng. Con mắt thứ 3 đặc biệt nhất, nằm ở chính giữa trán luôn luôn mở.
Các thực thể vi tế cũng có những giác quan bên ngoài như tai, mắt, mũi, lưỡi và da nhưng họ chỉ dùng giác quan trực giác để cảm nhận những cảm giác trên cơ thể, họ có thể nhìn bằng tai, bằng mũi hoặc da. Họ có thể nghe bằng mắt hoặc lưỡi, có thể nếm bằng tai hoặc da…
Cơ thể vật lý có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều tác nhân nguy hiểm và dễ dàng bị làm đau hoặc bị thương. Cơ thể vi tế cũng có thể bị thương hoặc bị đứt lìa nhưng có thể được phục hồi ngay lập tức.
Cái đẹp ở thế giới vi tế được đánh giá theo khả năng tâm linh chứ không phải bằng vẻ bề ngoài. Do đó, các thực thể vi tế không chú ý nhiều đến hình thức bên ngoài. Họ có thể mặc những bộ trang phục với bất kỳ màu sắc nào theo ý muốn. Cũng giống như con người mặc những bộ đồ lịch lãm trong bữa tiệc, những thực thể vi tế cũng lựa chọn những bộ đồ đặc biệt trong những lễ hội của họ.
Lễ hội của thế giới vi tế, tại những hành tinh có tầng số cao cấp như Hiranyaloka, diễn ra khi có một thực thể nào đó được giải phóng khỏi thế giới vi tế và tiến lên thế giới nhân quả. Trong những lễ hội này, những đấng tạo hóa tại thiên đường, người tạo ra những tâm thức vừa được thăng tiến, sẽ tham dự lễ hội bằng cánh sử dụng một cơ thể bất kỳ. Để chúc mừng cho tâm thức vừa thăng tiến, đấng tạo hóa sẽ chọn bất kỳ hình dạng nào mà tâm thức đó muốn. Khi tâm thức nhận ra sự thật, tâm thức đó sẽ gặp lại những bậc tạo hóa. Ví dụ, Jesus, đức cha của thế giới tạo hóa vô hạn, đưa ra những sứ mạng cho các tâm thức nào đó. Tạo hóa khi tạo ra một tâm thức luôn kèm theo những yêu cầu có thể được nhận ra nhưng cũng có thể chưa nhận ra ngay được.
Trực giác của các thực thể vi tế có thể quan sát được các hoạt động của con người trên trái đất, tuy nhiên con người vật lý không thể nhìn thấy được thế giới vi tế nếu như giác quan thứ 6 của họ không được phát triển. Rất nhiều người trên trái đất đã liên hệ được với những thực thể ở thế giới vi tế và nhân quả.
Những thực thể cao cấp trên Hiranyaloka gần như luôn luôn thức và hạnh phúc trong cả ngày và đêm ở thế giới vi tế. Họ giúp các thực thể khác giải quyết các rắc rối của vũ trụ và cứu rỗi những đứa con lạc lối ở trái đất. Khi những thực thể ở Hiranyaloka ngủ, họ cũng có những giấc mơ về tương lai. Họ luôn hướng về ý thức cao cấp nhất ở Nirbikalpa.
Những cư dân của tất cả mọi tầng số ở thế giới vi tế vẫn có lúc cảm thấy đau buồn. Tâm trí của những thực thể cao cấp ở hành tinh vi tế Hiranyaloka vẫn cảm thấy đau khổ khi phạm phải một lỗi lầm nào đó đi ngược lại với Sự thật. Những thực thể tiến bộ này luôn cố gắng làm hoàn hảo những suy nghĩ và hành động của mình theo các quy luật tâm linh.
Các cư dân vi tế dùng thần giao cách cảm để giao tiếp với nhau, không giống như cách giao tiếp của người trái đất bằng cách viết và nói. Không có bất kỳ sự nhầm lẫn hay khó hiểu nào cả. Các thực thể vi tế hành động và làm việc giống như những hình ảnh của một bộ phim được chiếu lên trên màn trắng bằng máy chiếu phim, tất cả đều là hình ảnh của ánh sáng. Họ gần như không thở, họ không cần khí Oxy. Con người sống bằng nước, không khí và năng lượng của thức ăn, các thực thể vi tế sống chủ yếu bằng ánh sáng vũ trụ.
Nhận thức cấp cao về Sự Thật luôn luôn đúng và không thay đổi, trong khi những trải nghiệm thoáng qua của của các giác quan chỉ là tạm thời hoặc tương đối và sớm muộn rồi cũng sẽ bị lãng quên trong trí nhớ.
Những loại rau ánh sáng cũng được trồng trên thế giới vi tế. Những thực thể vi tế ăn rau và uống những dòng rượu tuôn ra từ con suối ánh sáng. Cũng giống như con người trên trái đất có thể quay và chiếu lại những hình ảnh trên tivi, những thực thể cao cấp có thể làm biến mất những luống rau và trồng lại nó trên bầu trời hoặc bất kỳ hành tinh vi tế nào mà họ muốn. Mặc dù những cư dân trên hành tinh thiên đường Hiranyaloka gần như không cần thiết phải ăn uống, vẫn có những thực thể cao cấp hơn (những linh hồn tự do và gần như không có giới hạn trên thế giới nhân quả) không bao giờ ăn gì để giữ gìn năng lượng hạnh phúc.
Những linh hồn vi tế gặp lại rất nhiều những người thân, cha mẹ, vợ chồng, bạn bè trong rất nhiều lần tái sinh trên trái đất hoặc một hành tinh nào đó ở vương quốc vi tế. Do đó, sự yêu thương mà họ dành cho tất cả là như nhau! Họ học cách để thể hiện sự yêu thương tâm linh cho tất cả mọi người từ đứa trẻ cho đến những hiện thân khác của tạo hóa.
Mặc dù sự thể hiện tình yêu thương có thể khác nhau, ít hoặc nhiều tùy vào sự phát triển và chất lượng của các mối quan hệ trong cuộc sống trước trên trái đất, các linh hồn vi tế luôn sử dụng trực giác để nhận ra những người đã từng quen biết ở những hành tinh khác và chào đón họ đến với ngôi nhà vi tế mới của mình. Bởi vì tất cả mọi thực thể được tạo ra đều là riêng biệt và có tính chất khác nhau, các thực thể vi tế luôn nhận ra được những người bạn cho dù họ ở dưới hình dạng nào giống như những diễn viên trên trái đất luôn được nhận ra cho dù họ ở trong trang phục nào đi chăng nữa.
Một cuộc sống tại thế giới vi tế kéo dài hơn nhiều so với tại trái đất. Một thực thể vi tế bình thường sẽ sống từ 500 năm đến 1000 năm nếu so sánh với thời gian trên trái đất. Một cây tùng có thể sống 1000 năm. Cũng giống như những Yogi có thể sống hàng trăm năm trên trái đất trong lúc hầu hết những người bình thường sẽ chết trước tuổi 60, một số thực thể vi tế có thể sống lâu hơn rất nhiều so với những thực thể khác. Những vị khách đến với thế giới vi tế sẽ ở lại bao lâu tùy thuộc vào căn nghiệp vật lý, họ sẽ trở lại trái đất vào thời điểm phù hợp cho căn nghiệp của họ.
Các linh hồn vi tế không phải đau khổ khi rũ bỏ cơ thể vi tế lúc chết. Tuy nhiên, cũng có một vài thực thể cảm thấy hồi hộp khi rời bỏ cơ thể vi tế để tiến lên cơ thể nhân quả. Thế giới vi tế không hề có bệnh tật, tuổi già và sự tự hủy hoại. Con người ở trái đất sợ hãi khi thiếu đi 3 thứ: không khí, thức ăn và giấc ngủ vì họ nghĩ rằng tâm thức của họ chỉ là cơ thể vật lý yếu đuối này.
Cái chết vật lý xảy ra khi không còn hơi thở và bắt đầu xuất hiện sự phân hủy của tế bào. Cái chết vi tế là sự phân tán của các hạt năng lượng cấu tạo nên cuộc sống của các thực thể vi tế. Với cái chết vật lý, con người mất đi ý thức với cơ thể thịt da và nhận ra mình đang ở trong cơ thể năng lượng trên thế giới vi tế. Với trải nghiệm cái chết vi tế, thực thể chuyển từ nhận thức của sự sinh ra và chết đi trong thế giới vi tế đến nhận thức của sự sinh ra và chết đi trong thế giới vật lý. Quá trình lập đi lập lại trong thế giới vi tế và vật lý này xảy ra với tất cả các thực thể chưa có được sự giác ngộ. Kinh thánh đã định nghĩa thiên đàng và địa ngục do chính con người tạo ra bằng những ký ức sâu trong tiềm thức về rất rất nhiều những trải nghiệm của những hành động sai lạc và đau khổ ở thế giới vi tế và vật lý.
Con người quay về gần với tâm thức của mình nhất khi ở trong cơ thể nhân quả. Cơ thể nhân quả bao gồm 35 nguyên tố của tạo hóa, cơ thể vi tế bao gồm 19 nguyên tố và cơ thể vật lý bao gồm 16 nguyên tố.
19 nguyên tố của cơ thể vi tế tạo ra tinh thần, cảm xúc và các hạt năng lượng sống. 19 nguyên tố bao gồm trí thông minh, bản ngã, cảm xúc, tâm trí (ý thức của tâm thức); 5 công cụ của kiến thức – nằm trong cơ thể năng lượng gồm nhìn, nghe, ngửi, nếm và chạm; 5 công cụ của hoạt động – các khả năng để thực thi các hoạt động bao gồm sinh sản, bài tiết, nói, đi và kỹ năng bằng tay; và 5 nguyên tố của sự sống – để duy trì các chức năng của cơ thể bao gồm tiêu hóa, chuyển hóa, đào thải, tuần hoàn và phục hồi. Sự kết hợp năng lượng vi tế của 19 nguyên tố này tạo ra sự sống cho cơ thể vật lý – được tạo ra bởi 16 nguyên tố vật chất.
Với 35 nguyên tố của cơ thể nhân quả, tạo hóa đã tạo ra 19 nguyên tố vi tế và 16 nguyên tố vật lý. Bằng cánh điều chỉnh sự rung động trước tiên là của năng lượng vi tế sau đó là vật chất, tạo hóa đã tạo ra cơ thể vi tế và cuối cùng là cơ thể vật lý cho một con người. Theo thuyết tương đối, vũ trụ nhân quả và cơ thể nhân quả sẽ khác với vũ trụ vi tế và thế giới vi tế; vũ trụ vật lý và cơ thể vật lý cũng khác biết với các dạng tồn tại này.
Các mong muốn vật lý thể hiện sự ích kỷ và thỏa mãn cho các giác quan. Sự cám dỗ để thỏa mãn cho các giác quan còn lớn hơn mong muốn của năng lực vi tế và nhân quả.
Các mong muốn ở thế giới vi tế thể hiện trong việc tận hưởng sự rung động. Các thực thể vi tế thích thú thứ âm nhạc của thiên nhiên và tận hưởng nguồn ánh sáng muôn màu không bao giờ tắt của tạo hóa. Các thực thể vi tế có thể nếm, ngửi và chạm được vào ánh sáng. Các mong muốn vi tế cũng thúc đẩy những thực thể vi tế để tận hưởng và trải nghiệm tất cả mọi sự vật được tạo ra bởi ánh sáng bằng suy nghĩ và những giấc mơ.
Những mong muốn ở thế giới nhân quả thể hiện ở sự nhận thức. Những thực thể gần như tự do và chỉ được bao bọc trong cơ thể nhân quả này luôn nhìn nhận toàn bộ vũ trụ như là những ý tưởng của tạo hóa; họ có thể tạo ra tất cả mọi thứ chỉ bằng suy nghĩ đơn giản. Các thực thể nhân quả coi sự tận hưởng của các cảm giác vật lý và của ánh sáng vi tế là đơn giản và tầm thường cho các giác quan của linh hồn. Các thực thể nhân quả có thể tạo ra những cảm giác này ngay lập tức. Những thực thể chỉ còn lại cơ thể nhân quả có thể tạo ra vũ trụ như là một bậc tạo hóa. Bởi vì tất cả các tạo hóa đều được tạo ra bởi những mong muốn của vũ trụ, những linh hồn trong lớp áo mỏng nhân quả có đủ sức mạnh để làm được điều này.
Một linh hồn, không thể nhìn thấy được một cách tự nhiên, chỉ có thể được nhận ra khi khoác lên mình một cơ thể hoặc những cơ thể nào đó. Sự xuất hiện của cơ thể thể hiện sự mong muốn vẫn chưa được thỏa mãn hết của thực thể.
Khi một linh hồn vẫn ở trong một, hai hoặc ba lớp cơ thể, dấu hiệu của sự thiếu hiểu biết và các mong muốn không cần thiết, linh hồn đó không thể nào hòa nhập được với thế giới tâm linh. Khi cơ thể vật lý tan rã vì cái chết, vẫn còn hai cơ thể .. vi tế và nhân quả .. chưa cho phép linh hồn tiến lên thế giới tỉnh thức tự do. Sự ham muốn vô nghĩa mất đi khi con người có được sự thông thái, sức mạnh của sự thông thái tâm linh có thể làm tan rã hai cơ thể còn lại. Cuối cung, linh hồn nhỏ bé sẽ hòa hợp với sự tự do; hợp nhất với sự vĩ đại vô hạn.
Thế giới nhân quả vô cùng huyền ảo ! Để thấu hiểu được nó, một người phải có khả năng rất lớn của sự tập trung chú ý. Người đó có thể nhắm mắt lại và nhận thức được toàn bộ sự rộng lớn của vũ trụ vi tế và vũ trụ vật lý, khinh khí cầu ánh sáng và quả bóng rổ vật chất, chỉ là sự tồn tại của ý nghĩ. Nếu sự tập trung của con người cao cấp đó có thể tạo ra được tất cả mọi thứ trong hai vũ trụ này bằng suy nghĩ đơn giản, người đó sẽ tiến lên được thế giới nhân quả và đứng giữa ranh giới hợp nhất giữa suy nghĩ và sự vật. Người đó thấu hiểu được tất cả mọi thứ: chất lỏng, chất rắn, chất khí, điện từ, năng lượng, các thực thể, chúa, con người, động vật, các hành tinh, cây cối, vi khuẩn… đều là biểu hiện của sự tỉnh thức, giống như một người có thể nhắm mắt lại và nhận thấy mình đang tồn tại một cách tỉnh thức, ngay cả khi cơ thể của anh ta không thể được nhìn thấy bằng mắt thường và chỉ tồn tại như ý nghĩ.
Tất cả những gì con người trái đất có thể tưởng tượng ra thì thực thể nhân quả đều có thể làm chúng trở thành sự thật. Trí thông minh to lớn của con người có thể tưởng tượng chỉ trong tâm trí được tất cả mọi thứ, có thể đi từ hành tinh này sang hành tinh khác, đi sâu vào trong lòng đất, bay lên bầu trời cao hoặc biến thành bất kỳ điều gì. Nhưng các thực thể ở thế giới nhân quả còn tự do hơn nhiều, họ có thể biến những suy nghĩ thành những vật chất cụ thể một cách đơn giản mà chẳng có bất kỳ giới hạn nào về vật chất, vi tế hoặc nghiệp quả.
Thực thể nhân quả nhận ra rằng vũ trụ vật lý không phải chỉ được tạo thành bởi những hạt electron, vũ trụ vi tế không chỉ được tạo thành từ những hạt năng lượng mà cả hai vũ trụ này được tạo thành từ những suy nghĩ đơn giản của tạo hóa, sắp đặt và phân biệt với bởi Maya – quy luật ngăn cách giữa thế giới tạo hóa và những gì được tạo hóa tạo ra.
Linh hồn ở thế giới nhân quả nhận ra những linh hồn khác bằng một đặc điểm tâm linh – cơ thể được tạo ra từ ý nghĩ, điều duy nhất bao xung quanh họ. Các thực thể nhân quả nhận thấy được sự khác biết giữa cơ thể và suy nghĩ của họ. Giống như một người vật lý khi nhắm mắt lại có thể nhìn thấy được những đốm trắng hoặc những vệt xanh, các thực thể nhân quả cũng có thể nhìn, nghe, cảm nhận, nếm và chạm nhưng chỉ bằng suy nghĩ; họ có thể tự tạo ra chúng rồi làm chúng biến mất bằng sức mạnh của suy nghĩ vũ trụ.
Sự sinh ra và chết đi trong thế giới nhân quả được thực hiện bởi suy nghĩ. Những linh hồn trong cơ thể nhân quả này luôn vui mừng khi thấu hiểu được những kiến thức mới. Họ đắm mình vào sự bình an của mùa xuân, dạo chơi trên biển tri thức vô tận của vũ trụ, hòa mình vào sự hạnh phúc to lớn của tạo hóa. Hãy nhìn! Cơ thể-suy nghĩ của họ chứa đựng hàng tỷ các hành tinh tâm linh, hàng triệu vũ trụ, vô tận những ngôi sao của kiến thức, những giấc mơ, sự vô hạn của nhận thức thông thái.
Rất nhiều thực thể tồn tại hàng ngàn năm ở vũ trụ nhân quả. Luôn hướng đến những hạnh phúc sâu sắc hơn, linh hồn đi ra khỏi cơ thể nhân quả nhỏ bé và hòa nhập với sự bao la của vũ trụ nhân quả. Những cung bậc khác nhau của hạnh phúc vô tận: cảm xúc, tình yêu, sự tự do, bình an, trực giác, tĩnh tại, bình tĩnh và tập trung. Linh hồn không bao giờ tận hưởng cảm xúc của riêng mình tạo ra mà tận hưởng hạnh phúc hòa cùng với sự tỉnh thức của toàn thể vũ trụ vô hạn.
Khi linh hồn thoát ra khỏi vỏ bọc của ba cơ thể, nó thoát khỏi quy luật của tính tương đối và trở thành một thực thể vô hạn. Linh hồn đó sẽ là tất cả mọi thứ, là những vì sao, là mặt trời, là mặt trăng… Linh hồn tiến đến với vùng đất tâm linh của tạo hóa, nơi tạo ra ánh sáng, bóng tối, suy nghĩ cùng với hạnh phúc tột độ.
Khi linh hồn thoát ra khỏi ba cơ thể giới hạn, nó hợp nhất với tất cả, không còn mang tính cá nhân. Christ đã có được sự tự do cuối cùng này trước khi ngài sống trong hình dạng của Jesus. Ba giai đoạn tâm linh trong quá khứ mà Christ đã trải qua về cái chết và sự tái sinh được ngài nhớ lại trong ba ngày trên trái đất. Jesus Christ đã có được sức mạnh tự do tuyệt đối của Tâm linh.
Một người chưa giác ngộ sẽ liên tục đi đi về về các thế giới nhân quả, vi tế và trái đất để dần thoát khỏi được ba cơ thể bao bọc. Một vị thầy khi đạt được đến đỉnh cao của tự do có thể lựa chọn một điểm đến bất kỳ, có thể sống tại vũ trụ vi tế hoặc quay trở lại trái đất dưới hình dạng của một vị thầy để giúp đỡ những người khác trở về với nguồn cội. Một số vị thầy có thể gánh bớt những căn nghiệp để giúp thực thể cắt đứt vòng luân hồi ở vũ trụ vi tế và tiến lên vũ trụ nhân quả. Hoặc, một số lại đi vào vũ trụ nhân quả để giúp các thực thể do mình tạo ra rút ngắn lại thời gian ở trong cơ thể nhân quả và tiến lên hạnh phúc tuyệt đối.
Căn nghiệp vật lý phải được con người giải quyết hoàn toàn trước khi có thể hoàn toàn trú ngụ tại thế giới vi tế.
Có hai loại thực thể tồn tại trong thế giới vi tế. Một là thực thể có thể cư trú hoàn toàn ở đó. Hai là những thực thể vẫn còn phải giải quyết nghiệp quả trên trái đất, vẫn phải quay trở lại trong cơ thể vật lý. Sau khi chết, những thực thể này chỉ quay trở lại thế giới vi tế như một vị khách đến chơi tạm thời.
Những thực thể chưa chuộc lại được căn nghiệp trên trái đất sau cái chết vi tế cũng không được tiến lên thế giới nhân quả (thế giới của ý nghĩ) và phải đi về như con thoi giữa hai thế giới vi tế và vật lý, trải nghiệm liên tục 16 nguyên tố vật chất của cơ thể vật lý và 19 nguyên tố năng lượng của cơ thể vi tế. Tuy nhiên, sau khi mất đi cơ thể vật lý, linh hồn chưa tốt nghiệp tại trái đất mất rất nhiều thời gian để nhận biết được điều gì đang xảy ra và có rất ít cảm nhận được vẻ đẹp của thế giới vi tế. Sau một thời gian tạm trú tại thế giới vi tế, người đó sẽ quay lại hành tinh vật lý để tiếp tục học tập, phát triển bản thân để có thể tiến lên thế giới vi tế mãi mãi.
Những cư dân tồn tại lâu dài trên vũ trụ vi tế không còn vướng bận đến những ham muốn vật chất và không bao giờ phải quay lại trái đất nữa. Những thực thể này chỉ còn lại căn nghiệp của thế giới vi tế và nhân quả để giải quyết. Với cái chết vi tế, những thực thể này quay trở về thế giới tự do cấp cao hơn – thế giới nhân quả. Giải quyết bớt những căn nghiệp (nghiệp của ý nghĩ) trong cơ thể nhân quả trong một khoảng thời gian và trở lại Hiranyaloka hoặc một hành tinh nào đó ở thế giới vi tế. Tiếp tục được sinh ra một lần nữa trong một có thể vi tế mới để giải quyết những nghiệp quả vi tế còn lại của mình.
Sự kết hợp của ba cơ thể được thể hiện trong rất nhiều những hoạt động tự nhiên. Trong trạng thái tỉnh thức trên trái đất , con người có thể ý thức được cả ba cơ thể này. Khi con người dùng các giác quan để nếm, ngửi, chạm, nghe và nhìn, con người sử dụng cơ thể vật lý. Khi tưởng tượng hoặc dự đoán, con người dùng đến cơ thể vi tế. Cơ thể nhân quả được sử dụng khi con người suy nghĩ hoặc đi sâu vào bên trong thông qua THIỀN ĐỊNH; các ý nghĩ thiên tài thường đến với những người thường xuyên kết nối với cơ thể nhân quả. Theo đó, một con người có thể được chia ra làm ba phần: con người vật lý, con người năng lương và con người trí tuệ.
Một con người ý thức bản thân với cơ thể vật lý trong 16 tiếng mỗi ngày. Và trong giấc ngủ hoặc trong giấc mơ, con người ý thức trong cơ thể vi tế, làm một số công việc dưới dạng thực thể vi tế. Nếu con người có một giấc ngủ sâu và không có giấc mơ trong một vài tiếng đồng hồ, con người có thể đem sự tỉnh thức của mình, đem các giác quan của cái tôi của mình trở về với cơ thể nhân quả, đó là một giấc ngủ khỏe mạnh. Nếu giấc mơ của con người chỉ kết nói được với cơ thể vi tế mà không kết nối được với cơ thể nhân quả thì đó không phải là một giấc ngủ sâu.
Tác Giả: Yukteswar Giri / Paramahansa Yogananda
Người Dịch: Nguyễn Trần Quyết